Bản án 39/2017/DS-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản (đá bóng trực tiếp)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 39/2017/DS-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN (HỤI)

Ngày 25 tháng 9 năm 2017, tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 70/2017/TLST-DS ngày 20 tháng 7 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản (đá bóng trực tiếp) theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2017/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự: Nguyên đơn: ÔngLương Văn Đ, sinh năm 1951.

Địa chỉ: Ấp T, xã R, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ÔngTrần Văn L, sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: ÔngTrần Văn M(vắng mặt).

Đỗ Thị B, sinh năm 1975 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- ÔngTrần Văn L, sinh năm 1987 (có mặt).

- BàLương Thị Hằng N, sinh năm 1989 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp C, xã H, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19/7/2017, các văn bản kèm theo và tại phiên tòa ông Huỳnh Văn L trình bày:Ông Lương Văn Đ có mở và làm chủ hai dây đá bóng trực tiếp cụ thể như sau: Dây đá bóng trực tiếp thứ nhất giá 1.000.000 đồng, đá bóng trực tiếp mở ngày 15/01/2015 âm lịch, đá bóng trực tiếp gồm47 phần, khui vào ngày 15 âm lịch hàng tháng. Ông M và bà B tham gia 01 phần đá bóng trực tiếp, ông M và bà B hốt đá bóng trực tiếp vào lần khui đá bóng trực tiếp thứ 5, vào ngày 15/5/2015 âm lịch, khi hốt ông Đ đã giao đá bóng trực tiếp đầy đủ cho bà B và ông M. Sau khi hốt đá bóng trực tiếp, ông M và bà B còn phải đóng lại 42 lần đá bóng trực tiếp chết.

Dây đá bóng trực tiếp thứ hai giá 300.000 đồng, đá bóng trực tiếp mở ngày 30/8/2015 âm lịch, gồm 60 phần, đá bóng trực tiếp khui ngày 15 và 30 âm lịch hàng tháng, ông M và bà B tham gia 02 phần đá bóng trực tiếp. Ông M và bà B hốt đá bóng trực tiếp vào ngày 15/9/2015 âm lịch và ngày 30/9/2015 âm lịch. Sau khi hốt đá bóng trực tiếp, ông M và bà B còn phải đóng 57 lần đá bóng trực tiếp chết.

Sau khi hốt đá bóng trực tiếp, hàng tháng, ông M và bà B phải đóng tổng cộng 2.200.000 đồng tiền đá bóng trực tiếp chết. Nhưng ông M và bà B đóng đá bóng trực tiếp không đầy đủ cho ông Đ và còn nợ lại số tiền như sau:

Từ tháng 6/2016 đến tháng 7/2016 âm lịch ông M và bà B nợ 800.000 đồng. Từ ngày 15/8/2016 đến ngày 30/10/2016 âm lịch ông M và bà B nợ 6.600.000 đồng.Từ ngày 15/11/2016 đến ngày 30/4/2017 âm lịch ông M và bà B nợ 7.200.000 đồng.Từ ngày 15/5/2017 đến ngày 01/6/2017 âm lịch (tháng sáu trước) ông M và bà B nợ 4.400.000 đồng.

Như vậy, đến ngày 01/6/2017 âm lịch (tháng sáu trước) ông M và bà B còn nợ số tiền đá bóng trực tiếp là 19.000.000 đồng. Hai dây đá bóng trực tiếp trên đến nay chưa mãn. Ông Lương Văn Đ yêu cầu ông Trần Văn M và bà Đỗ Thị B trả số tiền nợ đá bóng trực tiếp là 19.000.000 đồng.

Tại biên bản hòa giải ngày 09/8/2017 và tại phiên tòa bà Đỗ Thị B trình bày: Bàthừa nhận bà có tham gia chơi hai dây đá bóng trực tiếp do ông Lương Văn Đ làm chủ. Dây đá bóng trực tiếp thứ nhất giá 1.000.000 đồng, gồm 47 phần đá bóng trực tiếp, bà tham gia 01 phần đá bóng trực tiếp và dây đá bóng trực tiếp thứ hai giá 300.000 đồng, gồm 60 phần đá bóng trực tiếp, bà tham gia 02 phần đá bóng trực tiếp. Cả 03 phần đá bóng trực tiếp trong hai dây đá bóng trực tiếp trên bà đã hốt. Bà còn nợ tiền đá bóng trực tiếp chết của ông Đ tổng cộng đến ngày 01/6/2017 âm lịch (tháng sáu trước) là 19.000.000 đồng đúng như ông L trình bày.

Đối với giao dịch đá bóng trực tiếp là do bà tự tham gia, bà tham gia chơi thì chỉ giao dịch đá bóng trực tiếp trực tiếp với ông Trần Văn L và bà Lương Thị Hằng N, không giao dịch trực tiếp với ông Đ, ông Trần Văn M là chồng bà không biết việc trên, số tiền hốt đá bóng trực tiếp bà chi xài cá nhân ông M không hề biết. Nay bà đồng ý chịu trách nhiệm trả số tiền nợ đá bóng trực tiếp là 19.000.000 đồng cho ông Lương Văn Đ, không yêu cầu ông M liên đới trách nhiệm trả nợ cùng bà.

Ông Trần Văn L trình bày: đá bóng trực tiếp là do ông Lương Văn Đ làm chủ đá bóng trực tiếp, ông và bà N là con chỉ đứng ra gom đá bóng trực tiếp dùm cho cha là ông Đ, số nợ trên là nợ của ông Đ. Bà Lương Thị Hằng N: Bà là vợ của ông Trần Văn L và là con của ông Lương Văn Đ, đối với hai dây đá bóng trực tiếp 1.000.000 đồng và 300.000 đồng do bà Đỗ Thị B tham gia chơi tổng cộng 03 phần đá bóng trực tiếp là do ông Đ làm chủ đá bóng trực tiếp, vợ chồng bà chỉ đứng ra gom đá bóng trực tiếp dùm ông Đ, số tiền bà B nợ 19.000.000 đồng là nợ của ông Đ.

Ông Trần Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia tố tụng tại Tòa án, nhưng ông M vắng mặt không lý do, đồng thời không cung cấp lời khai, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:Vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản – đá bóng trực tiếp là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo lãnh thổ được quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 củaBộ luật tố tụng dân sự.

Ông Trần Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhưng vắng mặt không lý do, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông M theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự là có căn cứ.

[2]Về nội dung tranh chấp:

Xét qua tài liệu chứng cứ, lời trình bày của đương sự thì ông Đ và bà B thống nhất với nhau về giao dịch đá bóng trực tiếp và toàn bộ lượng nợ. Chỉ khác nhau về cách thanh lý.

Ông Đ yêu cầu bà B và ông M trả số tiền nợ đá bóng trực tiếp là 19.000.000 đồng tính đến ngày 01/6/2017 âm lịch (tháng sáu trước). Bà B thống nhất lượng nợ và đồng ý tự chịu trách nhiệm trả nợ, không yêu cầu ông M liên đới nghĩa vụ trả nợ. Do đó có căn cứ buộc bà B trả toàn bộ số nợ trên cho ông Đ là phù hợp thực tế.

Đối với ông M không cung cấp chứng cứ, không khai báo, không phản bác, không phản tố về việc khởi kiện yêu cầu trả nợ của ông Đ, nhưng bà B cho rằng số tiền hốt đá bóng trực tiếp là do bà chi tiêu cá nhân, ông M không hay biết và không sử dụng chung trong gia đình. Lời trình bày của bà B như trên là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ, quan hệ hôn nhân của ông M và bà B vẫn đang tồn tại, bà B không chứng minh được việc bà sử dụng số tiền vào mục đích cá nhân. Do hôn nhân còn tồn tại bình thường, làm kinh tế gia đình là làm chung, không có căn cứ chứng minh làm kinh tế độc lập giữa ông M và bà B. Nay xét buộc ông M phải liên đới nghĩa vụ với bà B để trả toàn bộ số nợ cho ông Đ là phù hợp thực tế.

[3] Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Đỗ Thị B và ông Trần Văn M phải chịu theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 củaNghị quyết 326/2016/UBTVQH14quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 463, 466, 468 và 471 củaBộ luật dân sự năm 2015; Áp dụng các Điều 26, 35, 39 và 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Lương Văn Đ, buộc ông Trần Văn M và bà Đỗ Thị B phải trả cho ông Lương Văn Đ 19.000.000 đồng (mười chín triệu đồng) tiền nợ đá bóng trực tiếp.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Đỗ Thị B và ông Trần Văn M phải chịu 950.000 đồng (chín trăm năm mươi nghìn đồng), ông Lương Văn Đ được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp là 475.000 đồng (bốn trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai số 0006639 ngày 20/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2Luật thi đá bóng trực tiếpthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn:https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Nghị quyết được xét lại
  • Văn bản được dẫn chiếu
    Án lệ được căn cứ

    • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
      Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
      E-mail: đá bóng trực tiếp Protection
    Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
    Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
    P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;