Bản án 34/2019/DS-PT ngày 07/03/2019 về tranh chấp hợp đồng góp trực tiếp bóng đá k+

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 34/2019/DS-PT NGÀY 07/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong các ngày 06 và 07 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 253/2018/TLPT-DS ngày 17 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự góp trực tiếp bóng đá k+”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số:Bản án 43/2018/DS-STngày 01/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án xét xử số: 33/2019/QĐ-PT ngày 13 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:Bà T, sinh năm 1943; địa chỉ: Số 639, Tổ 8, ấp TT, xã TT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh - có mặt.

2. Bị đơn:Bà C, sinh năm 1968; địa chỉ: Số 446, Tổ 12, ấp TT, xã TT, huyện TB, tỉnh Tây Ninh - có mặt.

3. Người kháng cáo:Nguyên đơn, bà T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà T trình bày:

Bà C có tham gia 02 phần trực tiếp bóng đá k+, dây trực tiếp bóng đá k+ 2.000.000 đồng/tháng, trực tiếp bóng đá k+ mở ngày ngày 29-7-2016 (là ngày 26-6-2016 âm lịch), trực tiếp bóng đá k+ có lãi và có 22 phần do bà làm chủ trực tiếp bóng đá k+, cụ thể:

+ Phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 1: Bà C lĩnh trực tiếp bóng đá k+ kỳ đầu tiên vào ngày 26-6-2016 âm lịch, số tiền trực tiếp bóng đá k+ là 23.000.000 đồng (trừ lại 1 phần trực tiếp bóng đá k+ sống bà C phải đóng và tiền hoa hồng) nên số tiền hốt trực tiếp bóng đá k+ còn lại là 21.500.000 đồng. Khi lĩnh trực tiếp bóng đá k+ bà C có ký nhận giấy tờ với bà; sau khi lĩnh trực tiếp bóng đá k+, bà có giao thêm cho bà C số tiền 1.200.000 đồng từ trực tiếp bóng đá k+ viên thứ 22 (bà P tham gia thêm vào dây trực tiếp bóng đá k+ sau khi mở trực tiếp bóng đá k+ vài ngày), việc giao nhận số tiền 1.200.000 đồng không có giấy tờ. Bà C đóng trực tiếp bóng đá k+ (phần trực tiếp bóng đá k+ đã lĩnh) được 08 kỳ, còn nợ lại 13 kỳ trực tiếp bóng đá k+ với số tiền 26.000.000 đồng.

+ Phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 2: Bà C góp trực tiếp bóng đá k+ được 09 kỳ với số tiền 11.120.000 đồng thì ngưng, do kỳ trực tiếp bóng đá k+ thứ 10 bà không đồng ý để bà C hốt trực tiếp bóng đá k+, mặc dù bà C bỏ thăm trực tiếp bóng đá k+ cao hơn trực tiếp bóng đá k+ viên khác nên bà C ngưng đóng cả hai phần trực tiếp bóng đá k+. Bởi vì khi tham gia trực tiếp bóng đá k+, bà và bà C có thỏa thuận miệng nếu trực tiếp bóng đá k+ viên tham gia 02 phần trực tiếp bóng đá k+ trong cùng 01 dây trực tiếp bóng đá k+ thì chỉ được lĩnh 01 phần trực tiếp bóng đá k+, phần trực tiếp bóng đá k+ còn lại phải lĩnh trực tiếp bóng đá k+ cuối.

Sau khi bà C ngưng không đóng tiền 02 phần trực tiếp bóng đá k+ trên, bà và bà C có tính tiền trực tiếp bóng đá k+, cấn trừ tiền phần trực tiếp bóng đá k+ chưa lĩnh và phần trực tiếp bóng đá k+ đã lĩnh thì bà C còn nợ bà 6.000.000 đồng. Việc thỏa thuận cấn trừ tiền trực tiếp bóng đá k+ có lập giấy tờ, nhưng hiện nay đã thất lạc nên bà không cung cấp được.

Từ khi thỏa thuận cấn trừ trực tiếp bóng đá k+ đến nay, bà C không trả cho bà khoản tiền nào, nên bà khởi kiện yêu cầu bà C trả cho bà tiền trực tiếp bóng đá k+ cụ thể: Số tiền trực tiếp bóng đá k+ đã lĩnh trừ đi tiền trực tiếp bóng đá k+ chưa lĩnh (26.000.000 đồng - 11.120.000 đồng) = 14.880.000 đồng.

Việc góp trực tiếp bóng đá k+ có danh sách trực tiếp bóng đá k+ và bà đều giao cho từng trực tiếp bóng đá k+ viên. trực tiếp bóng đá k+ kết thúc ngày 26/02/2018 âm lịch. Giao dịch góp trực tiếp bóng đá k+ là giữa bà và bà C không liên quan ai khác, nên bà chỉ khởi kiện yêu cầu bà C trả số tiền trực tiếp bóng đá k+ 14.880.000 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi.

Bị đơn bà C trình bày:

Bà thống nhất với lời trình bày của bà T về dây trực tiếp bóng đá k+, thời gian mở trực tiếp bóng đá k+, số phần trực tiếp bóng đá k+ bà tham gia, thời gian và số tiền lĩnh trực tiếp bóng đá k+, số tiền nợ khi bà và bà T thỏa thuận cấn trừ tiền trực tiếp bóng đá k+ còn nợ bà T 6.000.000 đồng là đúng. Tuy nhiên, bà không thống nhất với bà T về số trực tiếp bóng đá k+ viên tham gia dây trực tiếp bóng đá k+, số tiền trực tiếp bóng đá k+ đã góp của phần trực tiếp bóng đá k+ đã lĩnh và phần trực tiếp bóng đá k+ chưa lĩnh cho bà T, cụ thể:

+ Phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 1: Sau khi lĩnh trực tiếp bóng đá k+ kỳ đầu tiên được số tiền 21.500.000 đồng, bà góp trực tiếp bóng đá k+ được 10 kỳ (đến ngày 26-3-2017 âm lịch) thì ngưng, số tiền trực tiếp bóng đá k+ đã góp là 20.000.000 đồng. Việc bà góp trực tiếp bóng đá k+ cho bà T không có giấy tờ và cũng không có người chứng kiến.

+ Phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 2: Bà góp trực tiếp bóng đá k+ được 10 kỳ, đến ngày 26-3-2017 âm lịch thì ngưng, do bà T không cho bà lĩnh trực tiếp bóng đá k+ mặc dù bà bỏ thăm trực tiếp bóng đá k+ cao hơn trực tiếp bóng đá k+ viên khác. Số tiền trực tiếp bóng đá k+ đã góp bao nhiêu bà không nhớ, vì số tiền trực tiếp bóng đá k+ từng kỳ không giống nhau và bà không ghi lại.

Khi bà tham gia trực tiếp bóng đá k+, dây trực tiếp bóng đá k+ có 21 người, bà T không thông báo cho bà biết việc có thêm trực tiếp bóng đá k+ viên khác tham gia và cũng không giao thêm cho bà số tiền 1.200.000 đồng.

Việc bà tham gia góp trực tiếp bóng đá k+ có danh sách trực tiếp bóng đá k+, nhưng do trực tiếp bóng đá k+ kết thúc ngày 26-02-2018 âm lịch nên bà không còn giữ giấy tờ trực tiếp bóng đá k+. Khi lĩnh trực tiếp bóng đá k+ bà có ký nhận với bà T, chữ ký tên “C” trong giấy trực tiếp bóng đá k+ do bà T cung cấp do bà ký nhận, họ tên C do bà T viết. Việc góp trực tiếp bóng đá k+ là giao dịch riêng giữa bà với bà T, không liên quan ai khác.

Bà không đồng ý trả số tiền trực tiếp bóng đá k+ 14.880.000 đồng cho bà T, vì phần trực tiếp bóng đá k+ chưa lĩnh bà T không giao tiền trực tiếp bóng đá k+ cho bà, mặc dù kỳ trực tiếp bóng đá k+ này bà bỏ thăm trực tiếp bóng đá k+ cao hơn trực tiếp bóng đá k+ viên khác.

Tại bản án số: 43/2018/DS-ST ngày 01-11-2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, quyết định:

Căn cứ các Điều 117, 471 củatrực tiếp bóng; Điều 147, khoản 1 Điều 228Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 12, 26Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T đối với bà C về “Tranh chấp hợp đồng dân sự về góp trực tiếp bóng đá k+”. Buộc bà C có nghĩa vụ trả cho bà T số tiền 6.000.000 (sáu triệu) đồng, ghi nhận bà T không yêu cầu tính tiền lãi.

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T yêu cầu bà C trả số tiền 8.880.000 (tám triệu, tám trăm, tám mươi nghìn) đồng.

Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án.

Ngày 12 tháng 11 năm 2018, bà T có đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại nội dung vụ án, chấp nhận yêu cầu của bà buộc bà C trả cho bà số tiền nợ trực tiếp bóng đá k+ là 14.880.000 đồng.

Tại phiên tòa: Bà T yêu cầu bà C trả tiền trực tiếp bóng đá k+ còn nợ là 14.880.000 đồng; bà C cho rằng phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 2 bà đóng trực tiếp bóng đá k+ sống được 10 kỳ, kỳ thứ 11 bà bỏ thăm cao hơn các trực tiếp bóng đá k+ viên khác nhưng bà T không cho hốt trực tiếp bóng đá k+ nên bà không đồng ý trả tiền trực tiếp bóng đá k+ như bà T yêu cầu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu như sau:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự chấp hành tốt nội quy phiên tòa.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà T; căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; giữ nguyên bản án sơ thẩm số:43/2018/DS-ST ngày 01-11-2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, xét thấy:

[1]Xét kháng cáo của bà T yêu cầu bà C trả số tiền trực tiếp bóng đá k+ 14.880.000 đồng, thấy rằng:

Bà C tham gia góp 02 phần trực tiếp bóng đá k+ trong dây trực tiếp bóng đá k+ 2.000.000 đồng/tháng, mở ngày 26-6-2016 (âm lịch), có 21 phần do bà T làm chủ trực tiếp bóng đá k+ là có thật được hai bên thừa nhận.

Đi với phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 1: Bà C hốt được 23.000.000 đồng, sau khi trừ tiền hoa hồng và tiền trực tiếp bóng đá k+ sống bà C phải đóng còn lại là 21.500.000 đồng, bà C có ký nhận trực tiếp bóng đá k+. Bà T cho rằng phần trực tiếp bóng đá k+ hốt này bà có đưa thêm cho bà C 1.200.000 đồng là tiền của trực tiếp bóng đá k+ viên mới tham gia, nên dây trực tiếp bóng đá k+ có 22 phần; số tiền này bà ghi vào giấy hốt trực tiếp bóng đá k+ bà C đã ký trước đó (bút lục 22); bà C không thừa nhận cho rằng bà T không có đưa thêm cho bà 1.200.000 đồng; bà T không có chứng cứ chứng minh cho việc có đưa bà C 1.200.000 đồng. Do đó, không có cơ sở xem xét đã đăng tiền trực tiếp bóng đá k+ cho bà C 22 phần như bà T trình bày.

Đi với phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 2: Bà T xác định bà C đóng trực tiếp bóng đá k+ sống được 09 kỳ, đến kỳ thứ 10 bà C bỏ thăm trực tiếp bóng đá k+ cao hơn trực tiếp bóng đá k+ viên khác, nhưng bà không đăng trực tiếp bóng đá k+ cho bà C vì giữa bà và bà C có thỏa thuận miệng nếu trực tiếp bóng đá k+ viên tham gia 02 phần trong cùng một dây trực tiếp bóng đá k+ thì chỉ được hốt 1 phần, phần còn lại phải hốt cuối; bà C không thừa nhận cho rằng không có việc thỏa thuận này, do bà T không cho bà hốt phần trực tiếp bóng đá k+ thứ 2 nên bà ngưng không đóng hai phần trực tiếp bóng đá k+.

Xét thấy quá trình thực hiện hợp đồng góp trực tiếp bóng đá k+, bà T và bà C đều vi phạm nghĩa vụ của chủ trực tiếp bóng đá k+ là không đăng tiền trực tiếp bóng đá k+ cho trực tiếp bóng đá k+ viên; trực tiếp bóng đá k+ viên hốt trực tiếp bóng đá k+ nhưng không tiếp tục đóng trực tiếp bóng đá k+.

Tại cấp sơ thẩm bà T và bà C đều thừa nhận sau khi bà C ngưng không đóng 02 phần trực tiếp bóng đá k+ thì giữa bà T và bà C có thỏa thuận cấn trừ tiền phần trực tiếp bóng đá k+ chưa hốt và nợ phần trực tiếp bóng đá k+ đã hốt thì bà C còn nợ bà T 6.000.000 đồng, việc thỏa thuận có giấy tờ, nhưng đã bị thất lạc. Việc thỏa thuận giữa bà T và bà C là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà C có nghĩa vụ trả cho bà T 6.000.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Bà T kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên không có cơ sở xem xét.

[2]Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh không chấp nhận kháng cáo của bà Toàn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[3]Từ những phân tích trên, xét thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà T; giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

[4]Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà T là người cao tuổi, có đơn xin miễn tiền án phí, thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 117, 471 của Bộ luật Dân sự; Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 26, khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà T.

2. Giữ nguyên Bản án số: 43/2018/DS-ST ngày 01 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà T đối với bà C về “Tranh chấp hợp đồng dân sự về góp trực tiếp bóng đá k+”. Buộc bà C có nghĩa vụ trả cho bà T số tiền 6.000.000 (sáu triệu) đồng; ghi nhận bà T không yêu cầu tính lãi.

2.2.Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về yêu cầu bà C trả số tiền 8.880.000 (tám triệu tám trăm tám mươi nghìn) đồng.

Kể từ ngày bà T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà C không chịu trả số tiền trên, thì hàng tháng bà C còn phải trả cho bà T số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Về án phí:

3.1.Án phí dân sự sơ thẩm:

Bà C phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

Bà T được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho bà T 372.000 (ba trăm bảy mươi hai nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số 0005321 ngày 04 tháng 6 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.

3.2.Án phí dân sự phúc thẩm: Bà T không phải chịu.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2Luật thi đá bóng trực tiếpthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn:https://congbobanan.toaan.gov.vn

639
Bản án/Nghị quyết được xét lại
  • Văn bản được dẫn chiếu
    Án lệ được căn cứ

    • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
      Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
      E-mail: đá bóng trực tiếp Protection
    Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
    Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
    P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;